Họ và tên: Trần Quốc Huy
Ngày tháng năm sinh: 20/11/1999
Tỉnh/thành phố đang sinh sống: Đồng Tháp
Nơi học tập/Công tác: Kinh doanh tự do
Hạng mục dự thi: Cộng đồng
Portfolio: Nhiếp ảnh
GIỚI THIỆU BẢN THÂN
Mình tên là Trần Quốc Huy, mình có niềm đam mê với nhiếp ảnh từ lâu tuy nhiên mình chỉ mới “nhập môn” trong năm nay. Mình có công việc kinh doanh ổn định nên hiện tại mình chỉ chụp vì đam mê. Thể loại mình chụp nhiều nhất là Street Life, sau đó là phong cảnh và chân dung. Mình tham gia cuộc thi để thử sức bản thân cũng như để học hỏi thêm kinh nghiệm và trải nghiệm mới.
HẠNG MỤC NHIẾP ẢNH
Chiếc nón lá
Chiếc nón lá đã xuất hiện lần đầu tiên từ những năm 3000 TCN từ lúc đó nó đã được sử dụng cho nhiều công dụng nhưng chủ yếu là che nắng che mưa cho những người lao động mà lúc bấy giờ là những người nông dân. Chiếc nón thông thường được đan lại từ những mảnh lá khô có thể là lá cọ, lá dừa, lá tre. Nón có một dây đeo qua dưới cằm để cố định. Về sau xuất hiện thêm loại nón tương tư nhưng được làm từ gỗ để phục phụ cho các lính triều đình vì tính bền cứng của gỗ có thể chịu được va đập mạnh giúp cho người lính vững vàng hơn trong khi bảo vệ các vua chúa. Dần dần đến những năm cận hiện đại hình ảnh chiếc nón là có vẻ như gắn liền với hình ảnh người phụ nữ là chủ yếu do nón nam được du nhập từ nước ngoài sáng cũng nhiều mẫu mới lạ. Cho đến hiện tại cứ hễ bạn ra đường chạy vài vòng bạn sẽ thấy rất chi là nhiều người phụ nữ mưu sinh trên phố dùng nón là như một chiếc ô nhỏ để che nắng, che mưa. Nên từ đó người ta cho rằng “Chiếc nón lá” đã trở thành một biểu tượng cho người phụ nữ Việt.
Nói đến nón lá, tôi lại nhớ về thuở ấu thơ cái lúc còn ở bên bà ngoại, hằng đêm bà điều dùng chiếc nón lá để quạt cho tôi ngủ. Ban ngày bà lại dùng chiếc nón đó để đi lấy củi, tưới cây hoa màu, đi thăm đồng thăm ruộng bà cũng điều đội chiếc nón lá đó, bà dùng nó nhiều đến nỗi mà nó rách rưới hết cả. Chiếc nón ngày nào còn trắng ngà mới toanh nay đã ngả màu rêu xanh, nhưng bà vẫn đội bình thường, bà nói “còn xài được mà mua mới chi uổng tiền”. Do bà từ xưa đã khó khăn nên bà rất cần kiệm. Lúc đó mẹ tôi cũng có một chiếc nón nhưng nó mới hơn, chỉ hơi củ xíu thôi nhưng trông còn mới lắm, mẹ cũng hay theo bà đi làm các công việc đồng áng nhưng mẹ cũng có thêm công việc buôn bán để kiếm thêm thu nhập. Dần lớn lên theo từng cái quạt mát của bà, tôi cũng thấu hiểu đôi chút cái màu xanh rêu đó, cái màu đã in lên trên chiếc nón lá của bà, thì ra đó là màu của sương, gió, mưa, nắng mà bà đã từng trải qua. Tuy là nó đã che đi một phần gian khó ấy nhưng cũng chỉ là một phần mà thôi làm sao có thể che hết những gian lao của bà đã gánh vác. Tận tụy vì con vì cháu, bà đã vất vả dầm mưa dãi nắng để chăm lo cho gia đình, chiếc nón có thể che đi một phần mưa nắng, nhưng đâu thể che đi muôn phần lo âu phiền muộn. Rồi dần dần chiếc nón lá của bà cũng đã cũ thêm rất nhiều. Bà cũng vậy, bà cũng đã già hơn, thời gian không chỉ làm cho chiếc nón cũ đi mà còn làm cho con người ta già hơn. Rồi ngày ấy cũng đến, bà đã ngủ yên trong một giấc mơ hạnh phúc nhất mà bà đã xây dựng từ bấy lâu nay, một giấc mơ êm đềm và vĩnh cửu. Chiếc nón vẫn còn đó, nằm phía sau vườn nhưng nó cũng đã không còn được đội nữa nó cũng đã được nghỉ ngơi sau bao năm tháng chở che cho bà. Màu xanh rêu vẫn còn đó bà vẫn còn đây qua những hình ảnh và hoài niệm về bà. Bà như một chiếc nón lá lớn vậy, đã chở che cho bầy con và đám cháu, giờ chiếc nón đã mệt nhừ. Một hôm không lâu sau ngày bà mất, mẹ đã nhìn thấy chiếc nón của bà, mặt mẹ đượm buồn, mẹ thì thào: “Nón đây, nhưng mẹ đâu rồi”. Nỗi buồn càng thêm sâu, tôi chợt nhớ về quá khứ, những cái quạt của bà, những hình ảnh về bà bên tôi giờ không còn nửa. Tất cả chỉ còn lại trong một vùng ký ức nào đó của tôi.
Bạn có còn nhớ, mẹ tôi cũng có một chiếc nón lá y chang như của bà, nhưng nó đã hơi củ lúc tôi nói về nó rồi, nên nó cũng cần được thay mới sau đó. Tấm ảnh tôi chụp là chiếc nón lá mới của mẹ tôi cũng đã phủ màu rêu phong, y như chiếc nón của bà ngoại năm xưa và mẹ tôi cũng sắp có một đứa cháu.























